Bảng 1. Phân loại đau
Hệ thống cảm giác bản thể có hai hệ thống dẫn truyền lên phía trên chính: bó tủy sống
- đồi thị và bó cột lưng trong. Quá trình dẫn truyền lên trên bao gồm: tiếp nhận, dẫn
truyền và cảm nhận. Ngược lại, đường dẫn truyền xuống là vùng chất xám quanh đường
thông não thất (Periaqueductal Gray – PAG) ở thân não, nhân raphe ở hành tủy (Medulla)
và sừng sau tủy sống. Hệ thống thần kinh tự động bao gồm hệ thần kinh giao cảm và
phó giao cảm cũng có vai trò quan trọng trong đau bản thể và đau nội tạng.
Đau thụ cảm bản thể (đau cơ xương)
Somatic nociceptive pain (musculoskeletal pain)
Đau bản thể nông: đau sắc và dễ định khu do sợi Aδ cos myeline và sợi C không có
myeline chi phối.
Đau bản thể sâu (Deep Somatic Pain): là loại đau tham chiếu, chẳng hạn như đau khớp
của cột sống được thể hiện qua tính chất đau mơ hồ, khó định khu.
Đau thụ cảm nội tạng (Visceral nociceptive pain)
Đau thụ cảm nội tạng có những đặc tính sau:
a. Đau nội tạng gây ra do rối loạn của các tạng như: dạ dày, thận, túi mật, ruột, tử
cung và các tạng khác.
b. Những rối loạn này bao gồm: sự căng lên bởi tác động hay khối u, sự viêm nhiễm,
thiếu máu và sự co kéo vào mạc treo và có thể kèm theo những biểu hiện như: nôn,
buồn nôn, sốt, mệt mỏi và đau.
c. Đau gây ra do hoạt động của những sợi hướng tâm chi phối những tạng này.
d. Tạng đặc ít nhạy cảm trong khi bề mặt của tạng rỗng thì dễ nhạy cảm nhất.
e. Tăng/giảm nhạy cảm đau nội tạng (Visceral hyperalgesia/allodynia): một kích thích
đau rất nhẹ thậm trí không gây đau chẳng hạn như sự di chuyển của hơi hay phân
có thể gây ra đau đớn khi tổ chức bị viêm hay kích thích trong hội chứng ruột kích
thích (irritable bowel syndrome).
Có 5 đặc điểm lâm sàng quan trọng của đau nội tạng:
a. Không phải tất cả các nội tạng bị kích thích tiềm tàng (các tạng như gan, thận,
hầu hết các tạng đặc và nhu mô phổi không nhạy cảm với đau): vì không phải
tất cả các tạng đều có thần kinh cảm giác chi phối hoặc có thể những tạng
đó thiếu những kích thích thụ cảm phù hợp.
b. Không phải lúc nào nó cũng liên quan đến tổn thương nội tạng (cắt ruột không
gây ra đau là một ví dụ của tổn thương nội tạng không gây ra đau, trong khi
co kéo bàng quang thì rất đau là một ví dụ của đau mà không có tổn thương):
đó là đặc tính chức năng hoặc không cấu trúc của đau nội tạng.
c. Lan toả và khó định khu: nó có thể mang tính chất tham chiếu trên bề mặt cơ
thể. Điều này có thể giải thích bằng hiện tượng giao thoa giữa xung động nội
tạng và bản thể.
d. Nó phản ảnh đến những vị trí khác: lan tỏa và khó định khu, gây ra bởi hậu quả của một số sợi tận cùng dẫn truyền hướng tâm rất nhỏ của nội tạng được bù trừ bởi sự hòa nhập của các sợi nội tạng hướng tâm trong tủy sống.
e. Nó kèm theo những phản xạ cơ và phản xạ tự động chẳng hạn như nôn, buồn nôn và căng cơ lưng xảy ra trong cơn đau quặn thận: nó được coi là phản ứng có tính chất cảnh báo.
Đau thần kinh (Neuropathic pain)
Bảng đánh giá triệu chứng đau thần kinh (Neuropathic Pain Symptom Inventory – NPSI):
là phương pháp tổng hợp đánh giá những triệu chứng của đau thần kinh. Nó cũng được
sử dụng để so sánh mức độ đau thần kinh trước và sau khi điều trị (Bảng 2).
1. Đau tự phát bề mặt: cảm giác bỏng.
2. Đau tự phát sâu đè ép: cảm giác đè ép.
3. Đau kịch phát (paroxysmal pain): nhói như điện giật và dao đâm (electric shocks
and stabbing)
4. Đau kích thích tiềm tàng (evoked pain): đau gây ra bằng quệt nhẹ, đè ép, hay kích
thích lạnh (evoked by brushing, pressure and cold stimuli).
5. Dị/loạn cảm giác (paresthesia/dyesthesia): gai/kim châm và tê bì kiến cắn
(pins/needles and tingling).
Bảng 2. Bảng đánh giá triệu chứng đau thần kinh (neuropathic pain symptom inventory)
KẾT LUẬN
Đau có thể phân loại thành đau thụ cảm và đau thần kinh. Đau thụ cảm là một quá trình
đau bình thường mà kích thích đau đến từ môi trường bên ngoài hoặc tình trạng nội tạng
hay bản thể bên trong. Nếu như có tình trạng tổn thương thần kinh về mặt giải phẫu hay
chức năng thì có thể gây ra đau thần kinh. Không một người bệnh nào nói cho chúng ta
biết họ có các cấu thành của đau thần kinh. Từ những triệu chứng lâm sàng và biểu hiện
của đau thần kinh, đau bản thể hay đau nội tạng mà người thầy thuốc phải xác định
người bệnh có loại đau nào. Theo như phân loại đau thì cách điều trị và đáp ứng cũng
rất khác nhau. Hơn nữa nếu đường dẫn truyền đau có trục trặc thì phải chuyển cách
điều trị từ dùng thuốc sang can thiệp. Việc hủy thần kinh giao cảm là cần thiết với những
bệnh nhân có giảm cảm giác đau với lạnh. Nói một cách khác sự hủy giao cảm nội tạng
có thể là có ích với bệnh nhân đau bụng trong thực hành.
Kyung - Hoon Kim M.D., Ph.D
Khoa Gây Mê và Điều trị Đau, Trường Y, Đại Học Quốc Gia Pusan, Hàn Quốc